Đợt Tết năm ấy, chú Khiêm không thể lên trực thay cho anh Vỹ được. Người nhà chú báo tin, sáng ngày Mùng 1 Tết, chú Khiêm bị ngã, chấn thương nặng phải đưa đi cấp cứu. Gia đình kê lại, lúc đó chú leo lên ghê thang để thắp hương, vô tình trượt chân ngã nhào xuống, đầu đập vào cạnh bàn nước bằng gỗ ngay bên dưới, bất tỉnh. Ở dưới quê, nhiều gia đình hay để bàn thờ trên cao, mỗi khi thắp hương phải lấy một cái thang để trèo lên, chới với rất nguy hiểm. Bệnh viện kết luận rằng chú bị xuất huyết não khá nặng, phải phẫu thuật. Sau ca mổ, chú hôn mê cả tuần lễ. Mọi người nghĩ rằng khi đó chắc chú không qua khỏi. Gia đình cũng đều xác định, bác sĩ cũng hết cách, không can thiệp gì thêm được. Đột nhiên sau đó vài ngày, chú Khiêm lại tỉnh dậy, dần dần hồi phục, đáp ứng thuốc khá nhanh. Chỉ sau một tháng nghỉ ngơi, chú lại quay trở về công tác. Trong suốt một tháng ấy, anh Vỹ vẫn phải thay thế chú điều hành công việc, cường độ làm việc dày đặc và căng như dây đàn vì Trạm phó khó tính khắt khe, yêu cầu mọi người phải chuẩn chỉ về lịch trực, tác phong, báo cáo.
Trong những buổi ăn uống của cả cơ quan với nhau, chú Khiêm mới vui miệng kê lại
ras
vụ tai nạn không may ây. Chú kể rằng khi đó, đang leo lên trên thang, chú thấy mệt mỏi, thờ thẫn như mất hồn. Sau khi cắm được nén nhang vào trong bát hương, dường như chú hoa mắt, nhìn thấy trên bàn thờ có một quả trứng tròn rất đẹp, lơ lửng trong không trung, ngay trước di ảnh các cụ, tỏa ra ánh sáng nhè nhẹ mê hồn. Chú vô thức với tay chụp lấy thì liền bị ngã khỏi thang. Trong suốt khoảng thời gian hôn mê đó, chú chỉ nhớ được duy nhất một giấc mơ. Giấc mơ ấy có điểm tương đồng với giấc mơ mà thằng Khôi từng kê lại cho anh Cảnh nghe. Chú thấy mình đi mãi, đi mãi trên một con đường tăm tối không có lối ra, xung quanh là những người nằm la liệt, có người mở mắt, có kẻ nhằm mặt im lìm. Chú Khiêm găng sức tìm lối ra, cứ đi men theo đoạn đường, đi mãi cho tới khi có một người kéo chú lại.
cứ đi men
Chú Khiêm giật mình nhìn ra sau lưng thì hoảng hốt nhận ra gương mặt thân quen từng nhìn thấy thuở bé. Người đó không ai khác chính là người cô đã mất từ lâu của chú. Người cô nhìn chú Khiêm khẩn thiết, liên tục xua xua tay:
“Dừng lại! Dừng lại... Đừng đi nữa con ơi. Đi nữa, không thể quay về được. Mau quay lại đi, con chưa tới số phải ở đây! Mau lên!”
Trong cơn mơ, chú có chút sợ hãi và cảm
thấy kì lạ nhưng cũng nghe theo lời người cô, quay đầu đi ngược lại thì thấy ở phía xa xăm có một quầng sáng lớn. Chú cứ đi miết mãi trở về gần quầng sáng đó thì bừng tỉnh dậy lúc nào không biết.
Sau việc này, chú Khiêm càng trở nên mê tín hơn, sức khỏe của chú không còn được như trước nên các việc đi bắt án, giám sát
vận hành đơn vị cũng bị ảnh hưởng. Chú thấy lo lắng về sự nghiệp trước mắt của mình, sợ sẽ bị thay thế, điều chuyển công tác. Chính vì thế nên anh Vỹ phải tìm cách để xoa dịu chú. Một ngày sau Tết chỉ vài ba tháng, anh Vỹ dẫn đến đơn vị một người đàn ông và giới thiệu là một vị thầy cúng nổi tiếng ở Huế, từng làm cố vấn tâm linh cho một Nguyên Thủ tướng. Khi đó anh Cảnh cũng ở cạnh đấy, làm công tác phục vụ tiếp khách, mời trà bánh nên nghe được vài câu chuyện họ nói với nhau. Anh cười thầm trong bụng rằng đúng là chuyện hoang đường, dù có tin chút về tâm linh nhưng anh vẫn dị ứng với mấy thể loại buôn thần bán thánh, có khi đây cũng chỉ là phường lừa đảo mà trạm phó dắt về.
Thế nhưng chú Khiêm lại hết mực tin tưởng người “cố vấn tâm linh” này chỉ sau một ngày ngồi nói chuyện. Cộng thêm với lão Vỹ liên tục ca ngợi, thuyết phục bồi thêm, không hiểu cả ba đã nói cụ thể những gì với nhau
nhưng sau ngày hôm đó, chú Khiêm quyết định giao toàn quyền điều hành mọi công tác trong đơn vị lại cho anh Vỹ. Sau này, những lời đồn đại rì rầm mới lan ra mọi phía. Theo như anh Cảnh được nghe kê lại từ những anh kiểm lâm đặc nhiệm hay làm việc với sếp, ông cổ vẫn trên đã lí giải được những chuyện xui rủi mà chú Khiêm gặp phải. Ông ta nói rằng chú Khiêm đang bước sang đại vận mới trong cuộc đời, có nhiều hung tinh chiếu phải nên nhiều thứ không may kéo đến. Không những thế, vía chú còn yếu, lại hay phải đi công tác, lên rừng xuống biển, dễ bị các vong hỗn hợp vía bám theo sách nhiễu, hãm hại. Cũng may chú phúc lớn mạng lớn, tai nạn xảy ra ở nhà nên có tổ tiên phù hộ mới qua được. Hiện giờ vẫn còn có những vong hồn bám theo chú. Hơn thế nữa khu căn cứ này lại không có gì bảo hộ. Nếu chú Khiêm cứ ở lại đây, đám ma quỷ ấy có thể sẽ tiếp tục càn quấy, ám hại chú, vì thế nên chú phải cẩn thận trong mọi việc. Ông cố vấn khuyên chú nên tạm thời giao lại hết quyền hạn cho cấp phó và lánh mặt một thời gian, đợi qua vận đen này, đừng ra mặt xử lí công chuyện nữa. Còn lại những việc cần làm thì ông ta sẽ tính toán cho.
Sau khi nhận chức quyền Trạm trưởng này, anh Vỹ liền hăng hái điều hành mọi chuyện tại đây. Mọi người đều thắc mắc vì sao các
cấp cao hơn không ai nói gì, sau này sự tình mới rõ. Đơn vị cấp trên quản lí trạm kiểm lâm số 1 huyện Quỳnh Nhai là Hạt kiểm lâm huyện. Bởi vì còn hơn một năm nữa, chú Hạt trưởng sẽ nghỉ hưu, chú cũng muốn “hạ cánh an toàn” nên không can thiệp vào chuyện gì nữa, chỉ chờ ngày về hưu yên ổn. Cha chỉ cần hai trạm trưởng và trạm phó: Khiêm và Vỹ thống nhất được với nhau và đảm bảo không để xảy ra vụ việc gì nghiêm trọng là được. Tuy nói rằng chuyển giao quyền trạm trưởng nhưng thực chất đây chỉ là một thỏa thuận ngâm giữa chú Khiêm và anh Vỹ chứ không có quyết định giấy tờ nào cả. Trên các văn bản quyết định đều vẫn là Trạm trưởng ký.
Việc đầu tiên anh Vỹ làm khi lên nắm quyền đó là thay đổi các kết cấu xây dựng của căn cứ. Anh ta lấy lí do rằng việc thay đổi sẽ tốt cho phong thủy của nơi này hơn, góp phần bảo hộ, “giải đen” cho chú Khiêm. Ở giữa sân của căn cứ trạm có một chiếc cột cờ cũ, trước đây hay được sử dụng trong các buô lễ nghi lễ long trọng, đón đoàn khách tới tham quan, thanh tra, hay các dịp sự kiện, hội hè... Anh Vỹ đã thuyết phục chú Khiêm cho đập đi xây lại cột cờ. Theo bản vẽ gốc đã được lưu trong hồ sơ nộp Bộ, cột cờ được xây ở chính giữa khu đất, muốn thay đổi, té xây dựng lại, tùy theo tình hình thực tế phải
có báo cáo cụ thê, Bộ cho phép mới được tiến hành. Do vậy, việc thay đổi vị trí liền được chuyển thành thay đổi cấu trúc bục cột cờ đê lách luật. Theo lời ông cô vẫn tâm linh kia, khu đất này nằm trên đỉnh đồi, có huyết mạch của cả vùng chảy qua. Vị trí cột cờ năm ngay trung tâm của căn cứ như thế là ở ngay trên huyết mạch. Nếu xây dựng như cũ, cột cờ giống mũi tên cắm thẳng vào huyết mạch này. Huyết mạch bị đứt gãy, long mạch bị tổn hại trở thành vận khí xấu, ảnh hưởng tới tất cả những người sống ở đây.
Để khắc phục hiện tượng này, ông có vân yêu cầu phá bỏ bục cột cờ, xây lại từ hình dáng vuông văn thành hình bát quái có tác dụng “hàn” được long mạch. Ở phía dưới bục phải đắp bê tông kín để không chạm vào long mạch. Trong quá trình xây sửa, ông ta còn đặt thêm một số món đô pháp khí, đặt những lá bùa màu vàng, gấp thành những hình thù kì quái, chôn vào dưới chân cột cờ. Tất cả các nhân viên kiểm lâm của trạm thấy vậy đều bàn tán xì xảo nhưng không ai dám ra mặt lên tiếng, kể cả anh Cảnh. Họ đều thấy việc chú Khiêm bị tai nạn ở nhà vốn di chẳng liên quan gì tới vùng đất này, thế nên việc anh Vỹ làm là khiên cưỡng và lạm quyền.
Tưởng đâu những việc phá dỡ, thay đổi này đã là vô lí và quá lắm, thế nhưng Vỹ vẫn
chưa muốn dừng lại. Sau khi xây lại bục cột cờ, việc tiếp theo lão Vỹ này cho tiến hành là thay đổi vị trí công lớn. Anh ta lấy lý do là con đường độc đạo nối hai bản Mường Tha và Mường Chiên chạy ngang qua Trạm gây ra hướng phong thủy không tốt. Trạm kiểm lâm nằm ở giữa hai bản này, đoạn đường độc đạo duy nhất kéo dài từ trục đường quốc lộ dưới núi và chạy thăng tới nước bạn Lào, qua chốt kiểm soát tiêu ngạch Sông Mã. Tuy nhiên khi đi ngang qua Trạm, con đường này lại có hướng đâm thăng vào công đơn vị, rồi với rẽ phải để đi tiếp qua Lào. Đơn vị cũng làm một đoạn đường nhỏ nôi từ con đường này để đi vào Trạm kiểm lâm, tạo thành cái ngã ba. Xét theo phong thủy, con đường đâm thẳng vào đơn vị đó bị coi là điềm xui, là điềm không nên, thu hút những sát khí vào bên trong, khiến vận khí toàn căn cứ càng trở nên nặng nề u ám.
Vì vậy lão Vỹ đề xuất chú Khiêm cho đổi cổng vào của Trạm kiểm lâm. Cách lách luật để xây dựng cũng giống y như đợt anh ta cho xây dựng bục cột cờ. Vì đây là cơ quan nhà nước, các công trình trong một đơn vị đã được thống nhất trong bản vẽ của Bộ Nông Lâm. Việc di dời công là điều bất khả thi cho nên anh ta đã chọn cách khác, đó là khóa trái cổng chính, xây bít cổng phụ hướng thăng vào Trạm. Sau đó, anh ta cho người đập
tường và mở một lối cổng khác để đi vào đơn vị.
Không chỉ có vậy, sau khi xây dựng xong xuôi tươm tất hết chiếc công mới thì lão Vỹ lại có đề xuất trích quỹ để mua thêm đồ phong thủy. Lần này anh ta cùng người cố vấn tâm linh mang về một quả cầu đá lớn làm bằng thạch anh, muốn đặt ở giữa sân, vừa trang trí tiểu cảnh sân cho đẹp mắt, vừa mang tính chất thanh tẩy khí xấu trong khu vực này. Vỹ dùng kinh phí đơn vị lên tới gần 30 triệu đồng để mua quả cầu đá đó. Tới thời điểm đó, mọi người trong trạm đã trở nên bất mãn hơn, nói ra nói vào. Trong cuộc họp hội đồng, có một số kiểm lâm viên cao cấp trong đội, công tác ở nơi này nhiều năm cũng đưa ra ý kiến cho Trạm trưởng và trạm phó rằng nên cắt giảm những chi phí không cần thiết. Quả thực cuộc sống hàng ngày của các kiểm lâm viên chỉ ở mức vừa đủ, không muốn nói là còn thiếu thốn về đồ ăn, thức uống do điều kiện đi lại khó khăn. Vì vậy không nên tiêu tốn quỹ vào những việc chưa thực sự cấp thiết mà nên tập trung nâng cao đời sống, tinh thần cho các anh em kiểm lâm thì tốt hơn. Thế nhưng những ý kiến này đều bị anh Vỹ gạt đi. Anh ta cho rằng đã lâu lắm trạm không có gì mới mẻ, phải có sự thay đổi để khích lệ động viên đơn vị đi lên. Không chỉ thế, những kiểm lâm viên cao cấp dám nói ra
ý kiến của mình còn bị trạm phó thay đổi thái độ, “đì” ra mặt. Nhiều người bị xếp ca trực không hợp lí, phạt thêm nhiều các lỗi vi phạm, cắt giảm vào lương. Vì thế nên các kiểm lâm viên khác đành im lặng, dù không hài lòng nhưng cũng không ai dám nói thẳng ra nữa.
Từ trước tới giờ, đơn vị vẫn vận hành bình thường, ổn định, tự nhiên giờ bày đủ trò mèo, vẽ vời tôn kém. Những người bị chèn ép cũng vô cùng ức chế nhưng không dám công kích trực diện nữa. Cũng có thể, họ đợi thời cơ chín muồi, khi mà con người ta đang hăng say trong quyền lực, gây ra nhiều sai phạm, khi đó họ mới báo cáo lên cấp cao hơn. Anh Cảnh nói đó là điều anh học được sau gần chục năm làm trong cơ quan nhà nước. Đa phần mọi người sẽ im lặng để đối tượng chủ quan, dù việc làm của họ sai rành rành. Tới khi nào đối tượng đó làm ra nhiều điều vượt quá mức cho phép, gây hậu quả nghiêm trọng thì tất cả những gì họ làm trước đấy sẽ đều bị tố cáo, đem ra ý kiến lúc họp xét kỷ luật. Khi ấy quả thật không thể cứu vãn được nữa gì nữa.
sẽ. Đa phần
Dần dà, mọi việc lại qua đi. Bẵng đi một thời gian, các kiểm lâm viên tiếp tục nhịp sống thường ngày: sinh hoạt, công tác, tuần tra, báo cáo..
hãng say trong quyền lực, gây ra nhiều sai phạm, khi đó họ mới báo cáo lên cấp cao hơn. Anh Cảnh nói đó là điều anh học được sau gần chục năm làm trong cơ quan nhà nước. Đa phần mọi người sẽ im lặng để đối tượng chủ quan, dù việc làm của họ sai rành rành. Tới khi nào đối tượng đó làm ra nhiều điều vượt quá mức cho phép, gây hậu quả nghiêm trọng thì tất cả những gì họ làm trước đấy sẽ đều bị tố cáo, đem ra ý kiến lúc họp xét kỷ luật. Khi ấy quả thật không thể cứu vãn được nữa gì nữa.
Dần dà, mọi việc lại qua đi. Bẵng đi một thời gian, các kiểm lâm viên tiếp tục nhịp
sian
sông thường ngày: sinh hoạt, công tác, tuần tra, báo cáo...
Cho đến khi cái chết đầu tiên xảy ra.
(còn tiếp)