Sau ngày gặp phải “con ma đầu đen” trong rừng, A Xáo không dám đi xa khỏi khu căn cứ của trạm nữa, chỉ dám đi loanh quanh hái rau lang nấu cho heo ăn. Một hôm, trong lúc nấu đồ ăn cho heo, Xáo đang cặm cụi nhóm lửa một mình ở lò gạch nhỏ sát sườn núi thì đột nhiên có ai đó đập vào vai nó. Nó giật mình quay lại thì nhận ra người vừa gọi mình là một người đàn bà trung niên, mặc quần áo người đồng bào, trong tay đang ôm khư khư một đùm bọc như có đứa nhỏ sơ sinh nằm bên trong. Gương mặt bà ta hẳn lên rõ sự khắc khổ, mệt nhọc, lòng mắt hằn đầy nhưng tia máu đỏ quạch văn vện. Xáo bèn hỏi người phụ nữ xem có chuyện gì, có cần giúp đỡ không thì bà ta hỏi xin ít đồ ăn cho đứa con của bà ta. Đứa bé đã đói mấy ngày nay mà bà ta lại không có sữa. Xáo cũng bối rối nhìn vào đùm vải bọc trên tay người phụ nữ, dường như nó hơi quá im lìm so với một đứa trẻ đói sữa. Người đàn bà cứ ôm chặt đứa trẻ ấy vào lòng mà không buông ra.
A Xáo lúc đó rất bối rối, nó vốn dĩ không có kinh nghiệm gì với trẻ con nên bèn trả lời là không có gì cho em bé ăn hết, nó chỉ đang nấu đồ cho heo ăn mà thôi. Trong lòng Xáo cũng lo lắng rằng có khi đứa trẻ đã lả đi mất rồi. Vậy nhưng người đàn bà đó vẫn không
bỏ cuộc, bà ta nói rằng cho bà ta xin ít đồ cám heo đó cũng được. Lúc này Xáo mới ngạc nhiên, nó bèn từ chối, bảo rằng đồ ăn thừa nâu cho heo sao cho con trẻ ăn được, có gì để nó đi hỏi ban lãnh đạo xem có thể hỗ trợ gì thêm không.
“Hihihihi... Không được đâu...” Bà ta đột nhiên phát ra tiếng cười khinh khích từ trong cổ họng, mặt cúi gằm xuống, áp má vào cưng nựng đứa bé.
Thế rồi người đàn bà ngẩng lên, nhìn Xáo bằng một ánh mắt rất quỷ dị, nửa phần chế giễu, nửa phần thỏa mãn. Bà ta nhe răng cười, khóe miệng kéo rộng đến tận mang tai. Xáo sững người lại, nhìn bà ta quay đầu đi thẳng vào một bụi rậm gần đó, ngay chỗ bìa rừng rồi biến mất như một làn khói. Tim của Xáo dường như ngừng đập bởi nỗi sợ hãi xuất hiện đột ngột như bóp nghẹt lồng ngực, chân nó nhũn hết ra nhưng cũng chỉ biết cách dồn hết sức bình sinh cắm đầu cắm cổ chạy ra khỏi nơi đang đứng.
Tất cả những người anh em khi nghe Xáo kể đến đoạn này, ai nấy đều nổi hết da gà. Một anh trong đám, giờ đang thực hiện nhiệm vụ chăn heo thay cho Xáo liền vội hỏi chuyện đó có thật không, nghe sao sợ quá. Người anh khẳng định từ lúc tiếp nhận nhiệm vụ đến giờ, anh lại không thấy hiện tượng gì.
Sau lần đó, vì quá hoảng sợ nên A Xáo không dám ở đơn vị nữa, lập tức trốn về nhà. Thế rồi nó trở về bản cũ, qua thăm ông bà, tiện thể đem kể lại câu chuyện cho ông bà nó nghe. Ông bà nội của Xáo cũng là người dân tộc sống ở xã Mường La đã mấy mươi năm, rất rành về những chuyện đã xảy ra ở khắp vùng tỉnh lị này. Khi ây nó mới có được chút thông tin về những điều lạ nó chứng kiến.
Ông bà nó kể lại là trước đây, cũng lâu lắm rồi có một người phụ nữ bị tâm thần ở ngay huyện Quỳnh Nhai, nơi có căn cứ trạm kiểm
lâm bây giờ Xáo đang công tác. Thần trí bà
ta không tỉnh táo, hay khùng khùng điên điên, đi khắp nơi làm phiền người dân. Mọi người đều xa lánh, bảo bà ta bị con ma rừng ám nên không cho ở trong làng, bắt bà ta dựng một cái chòi phía ngoài bìa rừng đê ở. Bà ta không có nơi nào nương náu, cũng không có họ hàng thân thích chăm lo cho ban ngày đi lang thang vật vờ, bị bọn trẻ con chọc ghẹo, tối đến lại đi xin đồ ăn. Hôm nào may mắn có người thương xót thì bà ta được cho vài củ sắn, bắp ngô bỏ bụng, còn không thì phải đi mót rễ cây để ăn cho qua cơn đói. Bẵng đi một thời gian, người ta để ý thấy bụng bà ta to lên, giống như có bầu. Thời điểm đó trí thức của nhiều người dân còn kém, không hề nghĩ đến việc bà ta bị ai xâm hại mà lại cho rằng bà ta mang con của con
ma rừng, nên không ai dám đến gần bà ta. Ai nấy, từ người lớn tới trẻ nhỏ đều xua đuổi, bắt bà ta đi về rừng, ở trong căn lán xập xệ mà họ dựng tạm cho.
Sau này bà ta sinh con, đành phải ẵm đứa bé đi lang thang xin ăn, nhưng không mấy ai cho, không mấy ai dám lại gần bởi họ sợ bị ma rừng ám. Họ vẫn coi đứa con mà bà ta bế là con của quỷ. Cũng tội nghiệp đứa trẻ gầy tong teo, suy dinh dưỡng, khóc ngằn ngặt vì đói, bị mẹ cắp theo lê lết đầu đường xó chợ. Vì là vùng sâu vùng xa nên các cán bộ làm công tác xã hội thời điểm đó cũng khó năm bắt được sát sao tình hình, hơn nữa bà ta cứ đi nay đây mai đó không ai biết, cũng không ai có thể giữ lại.
Một hôm, có một anh cán bộ biên phòng bắt gặp, cho bà ta đồ ăn thì phát hiện đứa bé bà ta ẵm trên tay đã chết từ khi nào. Xác đứa trẻ đã phân hủy bốc mùi hôi thối, khi mở chiếc chăn bọc ra, da dẻ đứa bé đã teo tóp hết cả lại, giòi bọ chui ra nhung nhúc từ hốc mắt sâu hoắm, từ mũi, miệng của đứa trẻ trông vô cùng kinh khiếp. Thế nhưng người phụ nữ điên vẫn chẳng màng tới điều đó, vẫn ôm đứa con vào lòng, bế bồng dỗ dành như chưa có gì xảy ra. Người chiến sĩ vội vã báo với đơn vị, đơn vị biên phòng bèn báo với già làng để xử lí. Khi ấy già làng mới cho người tìm lùng xem người phụ nữ điên ấy đang
lang thang ở huyện nào để lây đứa bé đem đi an táng.
Khi người dân và những cán bộ tìm được người phụ nữ ấy, bèn tiếp cận để vận động bà ta buông bỏ đứa trẻ. Vậy nhưng bà ta gào thét, lăn lộn không chịu, liên tục cào cấu, phản kháng với các cán bộ, những người dân đang muốn bế đứa trẻ đi. Dù là người điên, tình mẫu tử vẫn luôn hiện hữu một cách thiêng liêng. Bà ta gào khóc chống cự mãi rồi cũng ngất đi do lâu ngày không được ăn uống đầy đủ. Họ liền ngay lập tức đem xác đứa bé đem đi mai táng tử tế. Thế nhưng vì những quan niệm, định kiến đã ăn sâu nhiều năm về “con ma rừng”, già làng một mực nhất quyết không đồng ý chôn đứa bé tại bãi tha ma của làng. Ông cụ sợ rằng đứa con của quỷ ấy sẽ ám vào dân làng, khiến mọi người không được yên, nhũng nhiễu linh hồn tổ tiên đã yên nghỉ. Ngoài ra, ở trên vùng núi này, có nhiều bản làng vẫn theo tục thiên táng, vì thế nên không có chuyện được đào sâu chôn chặt như dưới xuôi.
Người dân ở đây, mỗi khi trong làng có người mất, sau khi cúng bái, thịt trâu, gà, lợn... đê dâng “con ma rừng” xong xuôi, họ sẽ không đưa người mất đi chôn. Cũng bởi vì họ sợ khi đưa đi chôn, “con ma rừng” ở vùng đất ấy sẽ giữ lại và không cho họ về, sẽ theo ám hại họ. Vì lý do đó, trong làng sẽ cử một
đội khiêng ma gồm tám người. Và tám người này đã được già làng cúng xin phép để được thần rừng bảo hộ, đưa được người mất đến bãi tha ma mà không bị ảnh hưởng gì. Đoàn đưa ma này sẽ có một người cầm đuốc phía trước dẫn đường, một người mang theo tư trang của người mất, bốn người khiêng xác người mất, một người đi phía sau cùng đê chặn đoàn và một người trưởng đoàn. Người mất sẽ được quấn chặt bằng vải trắng kín người, sau đó cột xỏ qua một khúc cây khoảng 2m để bốn người khiêng đi. Khi đến bãi tha ma, người mất sẽ được đặt vào quan tài được chuẩn bị sẵn. Nói là quan tài nhưng thực chất đó chỉ là sáu mảnh ván được ghép lại một cách sơ sài nhất, đặt cách mặt đất từ 0,5 – 01 m, không che lập hay bao phủ gì lên nữa. Sau đó, đoàn người này sẽ đi về và không được phép quay đầu lại nhìn dù có bất cứ tiếng động gì. Tám người này được chỉ định và không ai có thể thay thế, nếu trong số tám người này vắng vì lý do gì đó, người mất sẽ không được đem ra bãi tha ma cho tới khi có đủ số người. Cán bộ vận động quân chúng phải liên tục giáo dục bà con đem người mất đi chôn để không làm ảnh hưởng môi trường. Thế nhưng “phép vua còn thua lệ làng”, vẫn chẳng ai dám tiến hành, vì vậy đôi khi các cán bộ biên phòng, đơn vị quân đội còn phải đảm nhiệm luôn cả công việc khiêng người mất và đem đi chôn ở một nơi
sẽ
khác. Người dân sợ chôn người mất xuông dưới sâu lòng đất, người mất sẽ ở mãi trong đó không đi theo tô tiên được.
Về phần đứa bé, năm
phải đưa xác nó đem
đó đơn vị biên phòng
đi chôn ở phía sau đơn vị, cách khu chăn nuôi heo của trạm kiêm lâm hiện giờ gần hai cây số, sát bên vách núi. Sau khi người mẹ điên tỉnh lại, bà ta tìm con khắp nơi, suy sụp, kêu khóc, gặp ai cũng bám víu lại để hỏi. Thấy thương tâm quá, mọi người mới chỉ cho bà ta chỗ chôn đứa bé. Bà ta đến đó khóc lóc suốt mấy ngày trời, cứ nằm ôm nấm mộ của con, ai động viên, dỗ dành cũng không chịu rời đi. Được mấy ngày sau người ta phát hiện ra bà ta đã tắt thở tự bao giờ, nằm gục chết luôn tại đấy. Có lẽ do quá kiệt sức, không buồn ăn uống nên người đàn bà tội nghiệp ấy cũng đã không trụ được. Đến cuối cùng, cũng vẫn là các chiến sĩ phải lo mai táng rồi chôn luôn bà ta tại đấy, ngay cạnh nấm mộ của đứa trẻ xấu số. Từ đó ngọn núi này còn có một tên gọi khác là núi mẹ con. Tuy nhiên, chỉ những người thuộc thế hệ trước mới biết đến cái tên này cùng câu chuyện thương tâm ấy vì xảy ra cũng đã khá lâu rồi. Nghe ông bà nó kể vậy, thằng Xáo sợ quá muốn nghỉ việc, không dám quay lại cơ quan, bố nó cũng không nói nổi. Cho đến khi cơ quan cử người gọi điện động viên và chấp nhận giao
cho nó nhiệm vụ khác, nó mới chịu quay lại.
Sau khi nghe Xáo kể xong toàn bộ câu chuyện, người anh đồng nghiệp kia cũng sợ hãi nói từ mai không không muốn cho heo ăn nữa. Lời nói của Xáo về con ma đầu đen nửa hư nửa thực có vẻ giống như một ảo giác mà nó tưởng tượng ra. Thế nhưng câu chuyện về người đàn bà dân tộc ấy không giống cậu ta đã dựng chuyện cũng bởi anh Cảnh từng nghe phong thanh về cái tên “núi mẹ con” này nhưng không ngờ nó bắt nguồn từ một câu chuyện buồn đến vậy.
Ma đầu đen cũng là một trong những hiện tượng tâm linh năm trong tín ngưỡng của người địa phương nơi đây. Có lẽ từ hồi nhỏ A Xáo đã từng được ông bà, bố mẹ, họ hàng nhắc tới nên khi bắt gặp, nó mới sợ hãi tới như vậy. Người dân mô tả loài ma rừng đó khá giống với sinh vật Xáo đã từng nhìn thấy: nó có một cái đầu đen thui với hai con mắt đỏ lòm, có mái tóc dài là lướt và thường bay lượn ngoài bìa rừng. Loài ma đầu đen này được hình thành từ những oán khí của động vật bị chết, những người bị tai nạn chết trong rừng - những cái chết không rõ lý do, những người ấy bị bỏ lại trong rừng mà không được ai khâm liệm. Người dân ở đây còn có những hủ tục rất kì lạ, họ cho rằng những ai chết ở trong rừng mà không có lý do, là do bị con ma rừng bắt, nay đã trở
mặt đỏ lòm, có mái tóc dài lả lướt và thường bay lượn ngoài bìa rừng. Loài ma đầu đen này được hình thành từ những oán khí của động vật bị chết, những người bị tai nạn chết trong rừng - những cái chết không rõ lý do, những người ấy bị bỏ lại trong rừng mà không được ai khâm liệm. Người dân ở đây còn có những hủ tục rất kì lạ, họ cho rằng những ai chết ở trong rừng mà không có lý do, là do bị con ma rừng bắt, nay đã trở thành người của rừng. Vì thế nên họ sẽ không mang xác người mất về làm ma chay mà để ở lại đó cho thú rừng ăn thịt. Họ sợ đem người chết về, ma rừng sẽ bám theo để bắt cả làng. Những xác chết đáng thương bị bỏ rơi, mất đi trong đau đớn và sự lãng quên, hóa thành những oán khí bay lượn, trêu ghẹo người đi leo núi, hái thuốc trong rừng. Những con ma đầu đen này thường lẫn khuất trong bóng đêm, tìm ăn ếch, nhái, rắn, chuột... nhưng nếu gặp người, nó sẽ hù dọa, đột ngột nhảy ra từ trong các bụi cây tối, lấy chiếc lưỡi dài ngoằng toàn máu me liếm vào người đó. Người nào bị nó liếm phải sẽ mắc bệnh nặng, da thịt lở loét và phải cúng trâu bò mới giải được. Do đó, khi gặp phải con ma này, người dân sẽ bỏ chạy thật nhanh và không dám bén mảng đến khu vực ấy nữa.
(còn tiếp)