Những ngày sau cái chết của chú Dậu, cứ tưởng răng vòng xoáy công việc, nhiệm vụ hàng ngày sẽ lấp đầy đi khoảng trống chú để lại, nhưng không phải vậy. Bóng dáng của chú Dậu dường như vẫn ám ảnh khu căn cứ này.
Anh Cảnh là một trong số những người nằm chung phòng với chú Dậu. Sau khi chú mất, các đồng nghiệp và ban Nhân sự đã đóng hết đồ đạc của chú và gửi về quê nhà. Không những thế, Khôi và một anh kiếm lâm viên khác cũng đã chuyển sang căn phòng nhỏ hơn ở từ tháng trước, chỉ còn một mình anh Cảnh ở lại đó. Căn phòng bỗng chốc trống huơ, vắng lạnh, tiếng gió rừng rít ngoài cửa số hàng đêm nghe ù ù rợn tóc gáy, vô cùng thê thiết. Điều này làm anh Cảnh ngày càng sợ hãi trong lòng. Ở đó được vài đêm anh đành xin sang phòng khác ngủ vì không dám ngủ một mình, dù cho các phòng khác cũng đã chật chội. Khi còn ở trong phòng cũ, mỗi lúc ngủ, anh Cảnh vẫn cảm tưởng như chú Dậu vẫn ở đó, tưởng tượng ra chú đứng bên cạnh, chú ngồi vắt vẻo đôi chân hình chữ ngũ rồi uống cốc rượu, nhâm nhi món lạc rang như mọi khi. Anh còn tưởng tượng ra tiếng cửa kêu ken két khi chú thức dậy ra ngoài tập thể dục. Ban đầu, anh Cảnh nghĩ
rằng chỉ có anh tưởng tượng ra những tiếng động này, nhưng khi chia sẻ ra với vài người, họ đều nói rằng họ cũng nghe thấy, nhưng không ai dám nói ra. Cũng không biết rằng có phải do ảo giác hay do còn bất an, sợ hãi mà hàng đêm, lúc đã nằm yên vị trên giường ngủ, nhiều người đều nghe thấy phía bên ngoài khu kí túc xá có tiếng bước chân người đi đi lại lại. Thế nhưng khi một vài anh mở cửa ra nhìn thì lại không thấy có bóng dáng ai cả.
ăn cú
Âm thanh này vốn dĩ không hề xa lạ. Khi còn sông, chú Dậu thường hay dậy từ 4h the sáng để tập thể dục, đi bộ vài vòng quanh sân căn cứ để rèn luyện sức khỏe. Khi nghe thấy tiếng bước chân, ai nấy đều nhớ tới chú Dậu, cũng bởi xen lẫn tiếng bước chân đều đều ấy, họ còn nghe thấy loáng thoáng tiếng người vươn vai, thở hắt ra như đang tập thể dục. Ngay chính bản thân anh Cảnh còn đã nghe thấy tiếng bước chân đôi lần ngay sát cửa sổ phòng. Thi thoảng, tiếng đài radio ở đâu đó chợt phát ra rè rè, hòa chung với tiếng gió, được vài âm thanh rồi lại đột ngột tắt ngấm. Mọi người nói với nhau rằng có lẽ chú Dậu về, đang lẩn khuất đâu đó quanh đây. Ai nấy đều trở nên ngày một trầm tư, thế nhưng họ cố gắng lờ đi, tập trung vào công việc để vượt qua khoảng thời gian u ám này.
Không chỉ vậy, đợt đó, biểu hiện của đàn chó trong Trạm cũng thất thường, kì lạ. Đơn vị kiểm lâm nuôi rất nhiều chó, trong đó có hai con chó nghiệp vụ Becgie được huấn luyện, do đồn Biên phòng tặng cho trạm để hỗ trợ cứu nạn, truy vết tội phạm. Hai chú chó này rất khôn, hễ có ai vào trạm, nếu mặc đồng phục thì không sao, còn nếu là người lạ vào thì chúng sẽ nhảy lên sủa dữ dội. Đám chó còn lại chỉ là đám chó cỏ mà trạm nuôi, chủ yếu là để canh phòng, hoặc thi thoảng làm nguồn dự trữ thịt tươi. Thực ra, anh Cảnh cũng thấy tội cho chúng nếu như bị làm thịt nhưng khi vào mùa mưa lũ, đường xá khó khăn, không có gì để ăn, món ăn gì khi ấy cũng đều quý. Có những đợt bão lớn, sạt lở đất, cả mấy tháng trời giao thông tắc nghẽn không thể di chuyển, không có tiếp phẩm, không có thịt, buộc phải thịt chó để đảm bảo nguồn cung cấp đạm. Tuy nhiên những năm gần đây, nhiều người bỏ ăn thịt chó, cho nên chó của trạm không được bắt làm thịt nữa, một phần vì thấy thương chúng, một phần vì cũng đã chăm sóc nuôi chúng bao lâu không nỡ giết hại. Đám chó cỏ này vô cùng tinh khôn, hàng đêm đội tuần tra lên rừng, có chúng đi cùng cũng thêm phần an
tâm.
ấy cận
Người công tác ở đây nhiều năm, chỉ cần nhìn nhất cử nhất động của bọn chó là sẽ biết
xung quanh có điều gì lạ hay không. Khi ngửi thấy hoặc nghe ngóng có gì bất thường, bọn nó đều dỏng tai lên, khịt khịt mũi vài cái. Sau khi “kiểm tra” xong, nếu không có gì thì chúng sẽ phủ phục xuống, nằm yên. Có con thú rừng nào chạy qua chúng sẽ chỉ sủa một cái. Nếu chúng sủa một tràng dài thì h thường sẽ có người lạ vào trạm, nếu chúng quây đuôi mừng thì sẽ là lúc có kiểm lâm viên trong trạm đến thay ca tuần, còn nếu đột ngột sủa tru thì tức là thấy ma. Chính vì thế nên những kiểm lâm viên đi tuần rừng đêm thường được bọn nó báo động sớm, khi đi gác khá yên tâm. Chỉ cân trong suốt ca tuần tra chúng không sủa gì thì đỡ sợ. Lũ chó này cũng thích nghi rất nhanh, vì quen hay lên rừng đêm nên tối chúng thường thức, ngày lại năm ra sân ngủ.
Thế nhưng từ ngày chú Dậu mất, bọn chó này cũng trở nên khác lạ. Đêm đêm bọn nó cứ chạy ra giữa sân mà quẫy đuôi, rồi lại chạy vào trong khu chuồng nằm im, không ho he chút gì. Có hôm bọn nó lại trốn đi đâu hết, không còn theo chân kiểm lâm viên đi tuân rừng nữa, thậm chí còn không có con nào nằm ngoài sân. Một số ngày, khi đi cùng kiểm lâm viên, bọn nó cứ nhìn về khoảng không mênh mông ở phía trước mặt mà gầm gừ, gắt gỏng, kiểm lâm viên rọi đèn pin về hướng đó thì chỉ thấy một màn sương mù
bụi cây tối đen chứ không thấy động tĩnh gì. Việc này kéo dài được đôi tuần thì sức khỏe của lũ chó sụt giảm nghiêm trọng.
Mỗi ngày anh An, người được phân công chăn nuôi thay thằng Xáo đợt trước ra kiểm tra, thay cơm nước cho đàn chó thì đếm lại thấy không còn đủ số lượng nữa. Có con chó đã bỏ đi từ bao giờ. Không những thế, vài con còn bỏ ăn, không thiết tha gì, cứ nằm gục, rên ư ử. Sau ấy, một anh kiểm lâm viên đi tuần ngoài khu căn cứ còn phát hiện ra xác một con chó tên Bi của trạm đã nằm chết ở gần đấy, dưới một gốc cây xà cừ. Nó gầy trơ xương, chết nhe răng trông vô cùng thảm thương. Anh An cũng lo lắng vì sợ chúng mắc phải bệnh dịch gì nhưng chúng lại chẳng có biểu hiện bệnh rõ ràng, trừ việc bỏ ăn rồi chạy lên rừng không về nữa. Ban lãnh đạo cũng không thể mời bác sĩ thú y từ dưới thành phố lặn lội lên tận đây chỉ để khám cho đám chó cỏ được, nên mặc chúng tự sinh tự diệt. Anh Khải cũng thử cho chúng ít men tiêu hóa, nước đường để uống nhưng không cải thiện nhiều. Dần dà, sau một tháng, chỉ còn lại duy nhất 2 con Becgie trong trạm.
y
Một đêm không trăng, khi ấy là 9 giờ tối, từ khu nhà kho vọng ra tiếng la thất thanh. Mọi người nháo nhác cả lên, ngó ra từ hành lang xem có chuyện gì thì thấy anh Tuyên, một kiểm lâm viên nghỉ ở phòng bên cạnh phòng
anh Cảnh đang chạy hớt hải về khu kí túc xá. Khi anh lên đến nơi, mọi người vội vàng hỏi xem có chuyện gì. Trông mặt anh tái mét, tay chân vẫn còn run rẫy. Trong hơi thở hỗn hên, anh vội nói:
“Chú... Chú Dậu... Chú Dậu ở đằng kia
kia..."
“Là sao vậy?” Ai nấy đều ngạc nhiên.
“Lúc nãy anh ra phía sau nhà kho... định đứng hút thuốc một tí... Vừa cúi xuống ngẩng lên nhìn thấy một người rất giống chú Dậu, đi ngang qua mặt rồi rẽ khuất ở góc tường... Khi anh giật mình chạy theo thì lại không thấy ai ở đằng đó nữa cả. Làm gì có người nào đi nhanh đến như vậy. Sợ quá nên anh mới chạy về đây.”
Nghe tới đây, bầu không khí trở nên đặc quánh, nặng nề, chùng xuống trong chốc lát. Thế rồi chú Phan mới cất tiếng nói để xua tan bầu không khí ấy:
“Chắc mệt mỏi nên thằng Tuyên nhìn nhầm thôi. Giải tán đi! Ai về phòng nấy. Tưởng có chuyện gì. Chúng mày luyên thuyên ít thôi để mọi người còn tập trung làm việc. Mấy chuyện ma quỷ giờ ai tin.
“Em nói thật mà anh...” Anh Tuyên vẫn cố gắng làm nhầm trong miệng rồi cũng bỏ lửng câu nói. Đám đông tản mác ra nhưng
trong lòng ai chắc hắn cũng có chút gợn gợn.
Không còn những chú chó lên rừng cùng, nhiều kiểm lâm viên trực đêm bắt đầu có hiện tượng bỏ ca tuần tra. Khi bị trạm phó, đội trưởng gọi lên cảnh cáo kiểm điểm thì ai cũng nói là vì sợ không dám lên rừng buổi đêm nữa, nhất là sau khi có nhiều sự lạ xảy ra với đàn chó.
lần tra nào.
Cấp lãnh đạo phải nói chuyện thuyết phục, động viên tinh thần cho mọi người nhưng nhiều nhân viên vẫn không chịu, gần như tỏ thái độ đình công. Anh Cảnh khi ấy cũng thấy nặng nề, sợ hãi nhưng chưa dám bỏ ca tuần tra nào. Thế rồi ban lãnh đạo phải thay đổi hình thức tuần tra bằng cách tăng cường thêm người thành một nhóm cùng đi cho đỡ sợ. Mỗi ca tuần tra sẽ tăng lên thành hai tiếng, có từ 2-3 người cùng đi. Bình thường, do đơn vị kiểm lâm neo người nên mỗi ca đi tuần sẽ chỉ có một người đảm nhận, đi khoảng một tiếng – tiếng rưỡi. Nhiệm vụ cần làm là cầm đèn pin đi xung quanh kiêm tra căn cứ tại các vị trí nhà kho, nhà bếp, nhà hiệu bộ, rồi sau đó theo đường mòn vào trong rừng kiểm tra một số điểm giáp biên giới, nơi cửa rừng dễ có người xâm nhập rồi sau đó trở về, đổi ca cho người khác, có dấu hiệu gì bất thường phải lập tức báo cáo, nếu nghiêm trọng thì lãnh đạo sẽ huy động toàn bộ kiểm lâm viên “tác chiến”. Đấy là những
khi công việc còn nhẹ nhàng, đơn giản. Có những đợt phải tăng cường tuần tra vì có thông tin mật báo hoặc vào các đợt sắp có mưa bão, các cán bộ kiêm lâm viên còn phải chia thành từng tốp đi sâu vào trong rừng, “năm rừng” vài ngày, tính toán khả năng sạt lở, tìm kiếm dấu hiệu của người xâm nhập chặt cây, bẫy thú, rồi sau đó khống chế, phối hợp theo các kế hoạch của Đồn biên phòng lùng bắt người vượt biên trái phép. Những chuyến tuần tra ấy nặng đô và mệt mỏi tới mức toàn thân rã rời.
Tuy là vậy nhưng việc đi tuân tra rừng vào buổi đêm cũng đặt lên vai người kiểm lâm viên một áp lực vô hình. Một mình, giữa đêm khuya, giữa rừng rậm sâu thăm, xung quanh chỉ heo hắt ánh sáng của 3 chiếc đèn dây tóc le lói ở xa xa và chiếc đèn pin pha trên tay, ai nấy đều thấy rợn ngợp. Bên ngoài thì giá rét, gió lốc thổi từng cơn. Thời tiết ở trên vùng non cao này cũng cực độc. Ban ngày có thể nóng bức, nắng chói chang nhưng ban đêm, nhiệt độ lại xuống sâu, lạnh lẽo run người. Thiên nhiên khắc nghiệt, con người cũng phải chật vật để thích nghi với điều kiện sống ở đây. Gió là một đặc sản của vùng rừng Tây Bắc này. Cứ đến đêm, gió rít từng cơn, len lỏi qua kẽ hở của những thân cây, kêu ù ù rất khiếp hãi, nghe giống như hàng trăm vong hồn đang nỉ non ai oán.
Sau khi thay đổi tăng cường người đi tuần tra, công việc trong trạm kiểm lâm mới ổn định lại dần. Lúc này, những lời đồn thổi lại bắt đầu dấy lên, râm ran trong suốt những buổi tuần rừng hay trong bữa cơm dưới nhà ăn. Có người nói rằng khi chú Dậu mất, địa điểm cuối cùng sinh sống lại ở đây. Chú cũng đã gắn bó biết bao nhiêu năm ở vùng đất này, thế nên khi đưa thi hài chú về quê, có lẽ đã chẳng ai nghĩ tới mà làm đủ thủ tục,
dẫn linh hồn chú cùng vê. v ục,
nên chú không thể trở về nhà, đành quay lại căn cứ trạm. Linh hồn của chú vẫn lang thang ở nơi này, cũng không cố ý trêu chọc ai, vẫn làm những việc hàng ngày theo thói quen của chú: đi tập thể dục, nghe radio rồi chơi cùng với những con chó. Chúng quen với chú rồi nên không hề sủa mà chỉ chạy ra giữa sân vây đuôi nghe ngóng.
(còn tiếp)